Consultation hotline 0942 765 115
Emergency hotline 02773 878 115
banner

GÁNH NẶNG BỆNH VẢY NẾN VÀ KỲ VỌNG MỚI VỚI THUỐC SINH HỌC

Tuesday, 21/10/2025, 14:56 GMT+7

*Bài báo được đăng tại Hội nghị khoa học kỹ thuật

GÁNH NẶNG BỆNH VẢY NẾN VÀ

 KỲ VỌNG MỚI VỚI THUỐC SINH HỌC

BSCK1: Hồ Thị Trúc Linh

Trưởng Dơn nguyên Da liễu-Thẩm mỹ

Bệnh viện Đa khoa Tâm Trí Cao Lãnh

 

Tóm tắt:

Vảy nến là một bệnh da mạn tính, không lây, liên quan đến rối loạn miễn dịch, chiếm khoảng 2–3% dân số chung [6]. Ước tính trên toàn thế giới có khoảng 125 triệu người mắc bệnh [1]. Tại Bệnh viện Da liễu TP.HCM, mỗi năm tiếp nhận và điều trị trung bình hơn 52.000 lượt bệnh nhân vảy nến, đưa bệnh này trở thành một trong ba bệnh da liễu thường gặp nhất [8]. Con số này phản ánh mức độ phổ biến cao cũng như áp lực điều trị rất lớn tại các cơ sở chuyên khoa da liễu [2]. Không chỉ dừng lại ở tổn thương da, vảy nến còn gây tác động nặng nề đến tâm lý, chất lượng cuộc sống, đồng thời gắn liền với nhiều bệnh đồng mắc và gánh nặng kinh tế – xã hội [1]. Trong những năm gần đây, sự xuất hiện của thuốc sinh học (biologics) đã thay đổi đáng kể cách tiếp cận điều trị đối với bệnh nhân vảy nến trung bình – nặng, đặc biệt trong trường hợp bệnh nhân không đáp ứng hoặc không dung nạp với các liệu pháp kinh điển như methotrexat, cyclosporin, acitretin, quang trị liệu [6]. Thuốc sinh học là kháng thể đơn dòng hoặc protein dung hợp, tác động trực tiếp vào các cytokine chủ chốt trong cơ chế bệnh sinh của vảy nến [2]. Trước đây, chỉ cần đạt PASI 75 (giảm 75% diện tích và mức độ tổn thương da) đã được xem là thành công. Tuy nhiên, với sự ra đời của thuốc sinh học thế hệ mới, kỳ vọng hiện nay đã nâng lên mức PASI 90 và thậm chí PASI 100, tức là da sạch hoàn toàn sau điều trị [7]. Đây là bước tiến quan trọng, mở ra hy vọng về hiệu quả kiểm soát bệnh lâu dài, cải thiện rõ rệt chất lượng sống cho bệnh nhân.

Summary:

Psoriasis is a chronic, non-contagious skin disease associated with immune system disorders, affecting approximately 2–3% of the general population. Globally, it is estimated that about 125 million people are living with psoriasis. At the Ho Chi Minh City Dermatology Hospital, an average of more than 52,000 patient visits for psoriasis are recorded each year, making it one of the three most common dermatological conditions treated at the hospital. This figure reflects not only the high prevalence of psoriasis but also the substantial treatment burden at specialized dermatology centers. Beyond skin lesions, psoriasis imposes a heavy toll on mental health, quality of life, and is closely associated with multiple comorbidities as well as significant socioeconomic burden. In recent years, the introduction of biologic therapies has dramatically changed the management of patients with moderate-to-severe psoriasis, particularly in those who do not respond to or cannot tolerate conventional treatments such as methotrexate, cyclosporine, acitretin, and phototherapy. Biologics are monoclonal antibodies or fusion proteins that directly target key cytokines involved in the pathogenesis of psoriasis. Previously, achieving PASI 75 (a 75% reduction in the Psoriasis Area and Severity Index) was considered a successful outcome. However, with the advent of newer biologics, treatment goals have now shifted toward PASI 90 and even PASI 100, representing completely clear skin after treatment. This marks a significant advance, offering new hope for sustained disease control and substantial improvement in patients’ quality of life.

 

Từ khóa: Bệnh vảy nến, tâm lý, chất lượng cuộc sống, gánh nặng kinh tế-xã hội, liệu pháp sinh học, kháng thể đơn dòng, protein tổng hợp, PASI 100.

Keyword: Psoriasis, mental health, quality of life, socioeconomic burden, biologic therapies, monoclonal antibodies, fusion proteins, PASI 100.

 

Hiện nay vảy nến được xem như một bệnh viêm hệ thống, sinh bệnh học là sự tương tác giữa các yếu tố di truyền, yếu tố khởi phát bên ngoài và sự rối loạn điều hòa hệ thống miễn dịch bẩm sinh và miễn dịch mắc phải [6].

Có ít nhất 9 vùng gen liên quan với vảy nến (PSORS 1-9) trên các vị trí nhiễm sắc thể khác nhau [6]. Kết hợp các yếu tố khởi phát bên ngoài như thuốc, nhiễm trùng, chấn thương, rối loạn nội tiết, ... Khởi đầu các tế bào trình diện kháng nguyên được hoạt hóa và di chuyển vào hạch lympho. Tại đây, đến lượt chúng hoạt hóa các tế bào lympho T và đưa những tế bào này quay trở lại da. Ngay khi ở da, những tế bào lympho T hoạt hóa, tế bào trình diện kháng nguyên và tế bào sừng (keratinocyte) sản xuất ra các cytokine viêm như IL-12, IL-17, IL-23, TNF-α, và IFN-γ gây tăng sinh thượng bì và hình thành mảng vảy nến [6].

Các tế bào sừng bị kích thích quá mức sẽ di chuyển từ lớp tế bào đáy lên bề mặt da trong khoảng 3 – 4 ngày, nhanh hơn nhiều so với mức bình thường (28 ngày). Thời gian chuyển tiếp tế bào sừng bị rút ngắn như vậy sẽ làm chúng trưởng thành và sừng hóa một cách bất thường. Điều này phản ánh trên lâm sàng với hình ảnh thượng bì dày, tróc vảy và hiện diện các tế bào có nhân chưa trưởng thành trong lớp sừng [6].

Thương tổn da đặc trưng là mảng hồng ban không tẩm nhuận, giới hạn rõ, bề mặt có vảy trắng. Kích thước thương tổn có thể thay đổi từ những sẩn bằng đầu kim cho đến những mảng bao phủ phần lớn cơ thể. Bên dưới vảy là lớp hồng ban láng đồng nhất và sẽ xuất hiện những chấm xuất huyết khi lấy lớp vảy đi, gây tổn thương mao mạch bên dưới (dấu hiệu Auspitz). Vảy nến có khuynh hướng đối xứng và đây là đặc điểm có ích cho chẩn đoán xác định. Tuy nhiên, thương tổn 1 bên cũng có thể xảy ra. Hiện tượng Koebner (+) [6].

Vảy nến có nhiều dạng lâm sàng: Vảy nến thông thường, Vảy nến giọt, Vảy nến đảo ngược, Vảy nến đỏ da toàn thân, Vảy nến mủ, Vảy nến khớp (viêm khớp vảy nến) …

Phân loại mức độ nặng theo diện tích tổn thương (BSA) được đo bằng quy luật số 9 và dùng mặt lòng bàn tay bệnh nhân tương ứng với 1% diện tích cơ thể. BSA được phân độ như sau: mức độ nhẹ (< 10), mức độ trung bình (từ 10 đến < 30) và mức độ nặng (≥ 30) [6].

Phân loại theo chỉ số PASI thay đổi từ 0 – 72, chỉ số càng cao thì bệnh càng nặng. PASI được phân độ như sau: mức độ nhẹ (< 10), mức độ trung bình (từ 10 đến < 20) và mức độ nặng (≥ 20) [6].

Vảy nến gây ra nhiều gánh nặng lâm sàng với các triệu chứng điển hình như dày sừng, đỏ da, bong vảy, ngứa và đau rát, ảnh hưởng rõ rệt đến sinh hoạt thường ngày cũng như thẩm mỹ [4]. Có đến 90% bệnh nhân ghi nhận gặp phải các triệu chứng khó chịu này [6]. Bên cạnh đó, tác động tâm lý và xã hội của bệnh cũng vô cùng nặng nề: 44% bệnh nhân có nguy cơ tăng ý nghĩ tự sát, 90% cảm thấy bị kỳ thị, 52% có rối loạn tâm thần như trầm cảm hoặc lo âu, 60% cho rằng bệnh làm suy giảm nghiêm trọng chất lượng cuộc sống, và 91% mất tự tin, thu hẹp giao tiếp xã hội [9].

Không chỉ dừng lại ở sang thương da và tâm lý, vảy nến còn đi kèm nhiều bệnh đồng mắc. Khoảng 30% bệnh nhân có viêm khớp vảy nến, ngoài ra còn tăng nguy cơ mắc đái tháo đường type 2, bệnh tim mạch và hội chứng chuyển hóa so với dân số chung. Đặc biệt, có đến 25% bệnh nhân vảy nến đồng thời có rối loạn tâm thần [9].

Gánh nặng kinh tế – xã hội của vảy nến cũng rất đáng chú ý. Tuổi thọ trung bình của bệnh nhân giảm khoảng 10 năm so với người không mắc bệnh. Tại Hoa Kỳ, chi phí điều trị ước tính lên tới 11,25 tỷ USD mỗi năm [9]. Bệnh còn làm giảm năng suất lao động, gây mất việc hoặc khó khăn khi tìm việc mới. Thậm chí, nhiều bệnh nhân bày tỏ sẵn sàng hy sinh một phần tuổi thọ để được chữa khỏi hoàn toàn căn bệnh này [7].

Việc điều trị vảy nến hiện nay được phân thành nhiều nhóm phương pháp, tùy theo mức độ bệnh (nhẹ, trung bình, nặng), tình trạng sức khỏe của bệnh nhân và đáp ứng với các liệu pháp trước đó [6].

Điều trị tại chỗ chủ yếu cho bệnh vảy nến mức độ nhẹ hoặc khu trú, giúp giảm triệu chứng và kiểm soát tổn thương da [6].

  • Corticosteroids: thuốc bôi chống viêm, giảm đỏ, ngứa.
  • Dẫn xuất vitamin D (calcipotriol, calcitriol): ức chế tăng sinh tế bào sừng.
  • Ức chế Calcineurin (tacrolimus, pimecrolimus): thay thế corticoid tại vùng da nhạy cảm.
  • Dithranol và hắc ín: thuốc cổ điển, hiện ít dùng do gây kích ứng.
  • Quang trị liệu: tia UVB, PUVA.

Điều trị toàn thân cho bệnh vảy nến mức độ trung bình – nặng hoặc khi không đáp ứng với điều trị tại chỗ/quang trị liệu [6].

  • Methotrexate: thuốc ức chế miễn dịch, dùng lâu dài cần theo dõi độc tính gan, tủy xương.
  • Cyclosporin: ức chế miễn dịch, hiệu quả nhanh, song có nguy cơ độc tính thận.
  • MMF (Mycophenolate mofetil): ít dùng hơn, lựa chọn thay thế.
  • Dimethyl fumarate: có hiệu quả ở châu Âu, ít tác dụng phụ nặng.
  • Retinoids (acitretin): thường phối hợp quang trị liệu.
  • Apremilast: thuốc ức chế PDE-4 đường uống, dung nạp khá tốt.
  • Tofacitinib: thuốc ức chế JAK, đang được nghiên cứu.

Thuốc sinh học (Biologics) là bước tiến lớn trong điều trị vảy nến trung bình – nặng, đặc biệt ở bệnh nhân không đáp ứng hoặc không dung nạp với thuốc kinh điển. Thuốc sinh học là kháng thể đơn dòng hoặc protein dung hợp, nhắm vào các cytokine chủ chốt trong cơ chế bệnh sinh [6].

  • Ức chế TNF-α: infliximab, adalimumab, etanercept, golimumab, certolizumab.
  • Ức chế IL-12/23: ustekinumab.
  • Ức chế IL-17/17A: secukinumab, ixekizumab, brodalumab.
  • Ức chế IL-23: guselkumab, risankizumab, tildrakizumab.

Thuốc sinh học đã chứng minh hiệu quả vượt trội trong điều trị vảy nến, với tỷ lệ bệnh nhân đạt PASI 90–100 và nhiều trường hợp duy trì đáp ứng bền vững lâu dài. Các thuốc thế hệ mới như risankizumab, ixekizumab và guselkumab cho thấy hiệu quả vượt trội so với nhóm kháng TNF-α truyền thống. Bên cạnh đó, thuốc sinh học không chỉ kiểm soát tốt tổn thương da mà còn giúp cải thiện rõ rệt các triệu chứng của viêm khớp vảy nến, góp phần nâng cao chất lượng điều trị toàn diện [4].

Thứ nhất, sự ra đời của thuốc sinh học tiếp tục mở rộng lựa chọn cho bệnh nhân. Những thuốc này hứa hẹn sẽ mang lại sự linh hoạt hơn trong điều trị, bao gồm cả dạng đường uống, cải thiện đáng kể sự tuân thủ và chất lượng sống cho người bệnh.

Thứ hai, biosimilars là một giải pháp chiến lược giúp giải quyết thách thức chi phí. Với giá thành thấp hơn 20–40% so với thuốc gốc nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả và an toàn tương đương, biosimilars sẽ đóng vai trò then chốt trong việc mở rộng tiếp cận thuốc sinh học tại các quốc gia có thu nhập trung bình, trong đó có Việt Nam. Việc ứng dụng biosimilars rộng rãi không chỉ giảm gánh nặng tài chính mà còn cho phép hệ thống y tế tiếp cận mô hình điều trị bền vững.

Thứ ba, triển vọng tương lai còn đến từ công nghệ y học chính xác. Việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và các kỹ thuật tiên tiến như giải trình tự đơn bào, phân tích không gian (spatial transcriptomics), proteomics sẽ giúp xác định các dấu ấn sinh học (biomarkers) liên quan đến đáp ứng và tác dụng phụ. Nhờ đó, bác sĩ có thể dự đoán bệnh nhân nào sẽ đáp ứng tốt với một loại sinh học cụ thể, hạn chế thất bại điều trị, giảm chi phí và nguy cơ kháng thuốc.

Thứ tư, quản lý vảy nến trong tương lai sẽ có tính đa chuyên khoa rõ rệt. Điều trị sẽ không chỉ tập trung vào sang thương da, mà còn bao gồm tim mạch, nội tiết, tâm thần và cơ xương khớp, nhờ sự phối hợp giữa bác sĩ da liễu, thấp khớp học, tim mạch, nội tiết và tâm lý. Điều này đặc biệt quan trọng vì bệnh nhân vảy nến thường kèm nhiều bệnh đồng mắc, và một mô hình chăm sóc toàn diện sẽ giúp cải thiện kết quả lâm sàng tổng thể.

Cuối cùng, sự phát triển của mô hình điều trị kết hợp cũng đang được nghiên cứu, bao gồm phối hợp thuốc sinh học với các liệu pháp nhỏ (small molecules như apremilast, tofacitinib), hoặc phối hợp sinh học với quang trị liệu. Những chiến lược này mở ra triển vọng tối ưu hóa hiệu quả, giảm liều và hạn chế tác dụng phụ.

Tóm lại, triển vọng điều trị vảy nến trong thập kỷ tới sẽ dựa trên ba trụ cột chính: thuốc sinh học và biosimilars giúp mở rộng tiếp cận, công nghệ y học chính xác giúp cá thể hóa điều trị, và mô hình chăm sóc đa chuyên khoa toàn diện. Sự kết hợp này không chỉ hướng đến mục tiêu da sạch (PASI 100), mà còn cải thiện sức khỏe tổng thể, giảm gánh nặng tâm lý và xã hội, mang lại cuộc sống trọn vẹn hơn cho bệnh nhân vảy nến.

Về tính an toàn và chất lượng sống, thuốc sinh học nhìn chung được dung nạp tốt, ít gây tác dụng phụ toàn thân hơn so với các thuốc ức chế miễn dịch kinh điển như methotrexate hay cyclosporin.

Kết luận

Vảy nến là bệnh mạn tính toàn thân, gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe thể chất, tinh thần và kinh tế – xã hội.

Thuốc sinh học đã và đang thay đổi cục diện điều trị, mang lại hiệu quả cao và bền vững, mở ra hy vọng mới cho bệnh nhân. Thuốc sinh học cải thiện mạnh bệnh da và khớp, với hồ sơ an toàn thuận lợi nếu sàng lọc đúng và theo dõi định kỳ. Lựa chọn thuốc nên cá thể hoá theo kiểu hình bệnh (da/khớp), bệnh đồng mắc (IBD, béo phì, HBV, nguy cơ nhiễm nấm), và mục tiêu điều trị (PASI 90–100/da sạch)

Trong tương lai, với sự ra đời của các biosimilars và thuốc sinh học đường uống, kỳ vọng tiếp cận điều trị sẽ rộng rãi hơn, cải thiện đáng kể chất lượng sống cho bệnh nhân vảy nến.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Tình trạng dịch tễ học bệnh vẩy nến toàn cầu: báo cáo hội thảo. pmc.ncbi.nlm.nih.gov/articles/PMC5600082

[2] Bệnh vẩy nến điều trị mục tiêu: xác định kết quả trong bệnh vẩy nến bằng cách sử dụng dữ liệu từ một nghiên cứu thuần tập dựa trên dân số, trong thế giới thực (Hiệp hội Bác sĩ Da liễu Anh về Thuốc sinh học và Chất điều hòa miễn dịch, BADBIR) pmc.ncbi.nlm.nih.gov/articles/PMC7317460

[3] Mrowietz U, Kragballe K, Reich K và cộng sự Định nghĩa mục tiêu điều trị bệnh vẩy nến từ trung bình đến nặng: một sự đồng thuận của Châu Âu. Pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/20857129/

[4] Thách thức và cơ hội trong bệnh vẩy nến: Cái nhìn tổng hợp về tương lai. pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/40763948

[5] Các lựa chọn điều trị toàn thân sinh học và phân tử nhỏ hiện tại và mới nổi cho bệnh vẩy nến và viêm khớp vẩy nến. pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/36228472

[6] hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh da liễu 2019

[7] Hiệu quả và an toàn của thuốc sinh học đối với bệnh vẩy nến và viêm khớp vẩy nến và tác động của chúng đối với các bệnh đi kèm: Đánh giá tài liệu. pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/32121574

[8] kiểm soát vảy nến hiệu quả hơn cùng bệnh viện da liễu tp.hcm. benhvaynen.bvdl.org.vn/kiem-soat-vay-nen-hieu-qua-hon-cung-benh-vien-da-lieu-tp-hcm

[9] Tối ưu hóa điều trị vảy nến với thuốc sinh học, Bệnh viện Da liễu TPHCM, 2020.


TAG: